Trong kinh doanh có cái gọi là lợi thế cạnh tranh.
Hiểu nôm na, lợi thế cạnh tranh là điểm giao giữa sự khác biệt và thế mạnh lõi của công ty. Nó là thứ đối thủ không có, hoặc khó để có. Nó cũng là thứ giúp mình ghi dấu ấn trong tâm trí của khách hàng.
Lợi thế cạnh tranh đi từ chiến lược cạnh tranh, có thể là sự khác biệt, hoặc chi phí thấp, hoặc cả hai.
Ví dụ, một hãng hàng không lấy giá rẻ làm lợi thế cạnh tranh. Đó là khi họ chọn chiến lược chi phí thấp. Hay một hãng công nghệ chọn chất lượng sản phẩm làm lợi thế cạnh tranh. Họ tự tin rằng sản phẩm của họ là xịn nhất, ngầu nhất. Họ không hề rẻ, nhưng để đạt được trình độ sản phẩm của họ thì khó ai sánh bằng. Đó là khi họ chọn chiến lược khác biệt hóa.
Một ví dụ nữa, một hãng xe vừa có chất lượng tốt, vừa biết cách làm cho giá cả phải chăng nên thống lĩnh thị trường. Không những vậy, họ còn tạo ra một chuỗi giá trị khép kín để gia tăng rào cản gia nhập thị trường của đối thủ, tạo nên lợi thế dẫn đầu.
Nói vắn tắt và cơ bản như vậy để thấy chiến lược quan trọng. Nó giúp tạo ra lợi thế cạnh tranh cho công ty, là thứ được nhìn nhận trên thị trường, từ đó giúp công ty được tin dùng.
Nhìn ngược vào trong, điều gì nâng đỡ cho lợi thế cạnh tranh? Hay nói cách khác, điều gì giúp cho doanh nghiệp giữ vững được lợi thế cạnh tranh ấy?
Có nhiều hãng từng chiếm giữ vị trí dẫn đầu một thời gian, nhưng dần dà không chuyển mình kịp hoặc ngủ quên trên chiến thắng. Rõ ràng, tìm ra được lợi thế cạnh tranh đã khó, giữ vững chúng còn còn khó gấp nhiều lần. Câu trả lời là có nhiều yếu tố giúp duy trì lợi thế cạnh tranh, nhưng cần phải nhắc đến văn hóa doanh nghiệp.
Văn hóa doanh nghiệp chính là “bệ đỡ” cho chiến lược và các yếu tố khác trong công ty. Thiếu một nền văn hóa vững vàng và phù hợp, lợi thế cạnh tranh sẽ dần biến mất. Điều này càng nhanh và rõ hơn trong thời đại cạnh tranh khốc liệt như hiện nay.
Văn hóa là thứ giúp công ty trước hết định hình được mình là ai, mình muốn gì, mình phải làm như thế nào để thực hiện được chiến lược. Không những vậy, ở một phương diện khác, văn hóa còn dẫn dắt cả chiến lược. Trong trường hợp đó, nó quyết định cách lãnh đạo tư duy về chiến lược, xem coi với “cơ địa” này thì nên chọn chiến lược nào cho phù hợp. Khi đó, văn hóa là thượng tầng, là “ông vua” chi phối toàn bộ ý thức hệ và tư tưởng kinh doanh của doanh nghiệp.
Văn hóa còn nâng đỡ cho hệ thống/quy định/chính sách. Cứ lấy ví dụ nhỏ mà ai cũng có thể mường tượng được, đó là mỗi ngày ra đường đều thấy cảnh kẹt xe. Khi đó, luật lệ ít phát huy tác dụng mà ý thức giao thông sẽ chiếm phần quan trọng hơn. Nghị định 168 sau khi ban hành có tác dụng rất mạnh, sâu xa không phải bởi tính mệnh lệnh của văn bản mà là nỗi sợ bị phạt của người tham gia giao thông. Chính nỗi sợ đó (là văn hóa) ngăn họ không dám chạy ẩu nữa. Giờ đã gần nửa năm trôi qua, nỗi sợ ấy phần nào vơi dần, giao thông có dấu hiệu trở lại như cũ. Thế mới thấy, sửa luật chưa đủ nếu không để ý đến văn hóa.
Về mặt quản trị, ở công ty cũng y như vậy. Một quyết sách ban hành ra không phải ký một cái là mọi thứ chuyển đổi. Cái cần làm ngay sau đó là chuyển đổi văn hóa tương ứng thì quyết sách kia mới trở nên khả thi. Đầu óc con người mau quên, nên khi văn hóa chưa ngấm đủ mà chủ quan nghĩ rằng mình đã có luật thì kiểu gì cũng bị thực thi nửa vời.
Dẫn một vòng để thấy văn hóa doanh nghiệp thật ra là “bà vú nuôi” của lợi thế cạnh tranh. Tuy không trực tiếp “đẻ” ra chiến lược hay hệ thống, nhưng thiếu nó thì chiến lược hay chính sách/quy trình dù có hay đến đâu cũng một là nằm trên giấy, hai là thực thi nửa vời, ba là làm được thì cả tập thể ai cũng khốn khổ.
Nhớ là “cha mẹ” nó lo đi làm, nên cần phải thuê “bà vú nuôi” bên cạnh chăm sóc cho “đứa con” chiến lược kia thì mới ổn.
Bàn về chiến lược đã nhiều, nhưng bạn đã nghe về chiến lược theo "Ngôn...
Hạnh phúc sẽ bớt mơ hồ khi ta có một phương pháp hỗ trợ mình...
CAS không chỉ là nghiên cứu – mà còn là nền tảng cho phương pháp...